[DỊCH] – NHÀ GA TRONG ĐÔ THỊ: CƠ HỘI CHO CƠ SỞ HẠ TẦNG CỦA ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ TRONG TƯƠNG LAI

Nhà ga trong đô thị:

Cơ hội cho cơ sở hạ tầng của đường sắt đô thị trong tương lai

Tháng 4 năm 2013 – Felix Gerdes, ban Phát triển kinh doanh, Vận tải đường sắt và công cộng, tập đoàn Cisco/Hoa Kỳ

Trong những năm tới, các trung tâm dân số đô thị sẽ tiếp tục phát triển và trở nên ách tắc hơn, nhiều lực lượng lao động sẽ chọn giao thông đường sắt thay cho xe ô tô, đặt ra nhu cầu nặng nề hơn về cơ sở hạ tầng đường sắt. Hành khách chắc chắn sẽ dành nhiều thời gian dùng tàu hơn để đến nơi làm việc, trong khi cùng lúc sử dụng các thiết bị di động của họ để làm những việc  mang tính xã hội của con người như giao tiếp, thu thập thông tin, học tập, và vui chơi.

Những thay đổi hành vi trong xã hội có từ những xu hướng này sẽ đem đến những thách thức mới đối với các nhà quản lý đường sắt cũng như cơ hội mới để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế của khu vực. Trong tương lai, nhà ga sẽ đóng vai trò mới.  Những vai trò mới này làm nền tảng cho mô hình kinh doanh mới có thể nâng cao chất lượng cuộc sống cho hành khách.

Để chuẩn bị được cho các thay đổi sẽ xảy ra đó, cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của nhà ga phải phát triển để giúp cung cấp một loạt các lợi ích cho hành khách và những người vận hành nhà ga. 

Xu hướng tác động tới hành khách giao thông đô thị

Hơn 60% dân số ở châu Âu, Trung Đông, và Bắc Phi sẽ sống trong các  khu vực đô thị vào năm 2030.  Ngày nay, phần cư dân đô thị ở Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, và Pháp đã vượt quá 80% dân số. Vào năm 2030, theo nghiên cứu dân số mới nhất của Liên Hợp Quốc, danh sách đó sẽ tiếp tục tăng lên bao gồm Anh, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, và năm quốc gia khác.

Các thành phố ở các quốc gia này sẽ trở thành một loại động cơ mạnh mẽ cho sự  tăng trưởng kinh tế, giống như ở hầu hết các đô thị tại Bắc và Nam Mỹ, cũng như một bộ phận châu Á. Những vùng đô thị tập trung này nắm phần lớn mức tăng trưởng GDP của các quốc gia đó. GDP bình quân đầu người của London chẳng hạn, cao hơn 3 lần GDP bình quân của các nước thuộc nhóm EU27.

Các khu đô thị sẽ trở nên hấp dẫn hơn ở các nước có mức tăng trưởng dân số dương. Anh Quốc giờ đây lập tỷ lệ sinh cao nhất trong một thế hệ: 1,9 ca sinh trên  mỗi người phụ nữ . Eurostat ước tính rằng vào năm 2060 , Vương quốc Anh sẽ trở thành quốc gia đông dân nhất ở châu Âu, với dân số 77 triệu , vượt qua Đức , có dân số dự kiến sẽ thu nhỏ hơn hiện tại.

Khi dân số của các trung tâm đô thị gia tăng, nhu cầu về cơ sở hạ tầng giao thông vận tải cũng tăng tương ứng. Tại Anh , việc sử dụng đường xá dự kiến sẽ tăng 28% vào năm 2030. Nhu cầu về đường sắt sẽ tăng 49% so với thời điểm năm 2010.  Mỗi km đường bộ ở Anh hiện nay chứa lượng hành khách – phương tiện bằng số liệu của Đức, Pháp và Mỹ cộng lại.

Với các xu hướng phát triển dân số và nhu cầu về hệ thống đường sắt như trên, không có gì bất hợp lý khi cho rằng hiện tượng ách tắc đường sẽ tiếp tục xấu đi , bất chấp các công việc từ xa ngày càng được chấp nhận rộng rãi . Cũng vì lý do này, ngày càng nhiều hành khách muốn chuyển đổi sang sử dụng giao thông đường sắt để đi lại hàng ngày ….

Điện thoại thông minh: đem đến hiệu suất cao hơn cho hành trình.

Sự chuyển đổi phương thức này, tất nhiên, dựa trên sự tiện lợi của thời gian đi lại ngày càng thấp cũng như các lợi ích bổ sung tiềm năng mà cơ sở hạ tầng vận tải đường sắt có thể cung cấp. Khi đưa ra cơ hội và đem đến lợi ích lớn hơn chi phí, hành khách có khả năng sẽ thích sử dụng giao thông đường sắt, để có thể đạt được hiệu suất cao hơn, cũng như để giao tiếp và thu thập thông tin.

Một ví dụ hiện tại của việc này là sự tăng trưởng rất lớn về số lượng người sử dụng điện thoại thông minh. Điện thoại thông minh đang được tiếp nhận với tốc độ nhanh hơn máy tính cá nhân trong thập niên 1980 đến10 lần, và bây giờ được sử dụng bởi hơn 74% người trưởng thành ở Anh, Đan Mạch và Thụy Sĩ. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ này là 78% và ở Thụy Điển đã đạt đến 86%.

Không có gì ngạc nhiên, khi điện thoại thông minh không được sử dụng chủ yếu cho các cuộc gọi điện thoại. Trong thực tế, xét về thời gian dành cho mỗi hoạt động, việc gọi điện thoại chỉ đứng thứ năm, xếp sau việc lướt web, dùng mạng xã hội, chơi game, nghe nhạc, và đứng trên việc kiểm tra email.  Điện thoại thông minh, – cùng máy tính bảng đang phát triển mạnh mẽ -giúp chúng ta tương tác với nhau, thu thập thông tin, đưa ra các quyết định, và làm cuộc sống phong phú hơn.

Một số thay đổi về hành vi mà hành khách có khả năng thực hiện

Hành khách ở Anh đã dành tương đương với năm tuần mỗi năm để đi từ nhà đến nơi làm việc và trở về. Dự đoán rằng trong tương lai thời gian đi lại sẽ tăng đáng kể, không chỉ vì những xu hướng đã nói ở trên , mà còn bởi vì mọi người sẽ muốn dành nhiều thời gian để đi hơn, vì nhiều lý do tích cực .

Nhu cầu cho các kết nối băng thông cao

Một lý do hành khách có khả năng dành nhiều thời gian hơn , chứ không phải ít đi , để sử dụng giao thông đường sắt trong tương lai là bởi sự tiến bộ của kết nối mạng đáng tin cậy hơn.

Trong dự đoán về viễn thông mới nhất của mình , Deloitte – ông lớn trong ngành dịch vụ – lưu ý rằng điện thoại thông minh điển hình tạo ra lưu lượng mạng hơn 35 lần  so với điện thoại phổ thông, họ cũng mong đợi ở sự gia tăng lưu lượng truy cập không dây tới 50 lần so với mức hiện nay vào năm 2016.  Tuy nhiên các định luật vật lý hạn chế khả năng thông tin liên lạc dựa trên sóng vô tuyến. Deloitte dự đoán rằng nhu cầu băng thông sẽ vượt cung trong nhiều đô thị vào năm 2014.

Người sử dụng điện thoại thông minh sẽ cảm nhận được tác động của tình trạng thiếu hụt này trong các giờ cao điểm – khả năng của băng thông giảm mạnh sẽ làm cho việc phát video trực tuyến hầu như không thể và trình duyệt web hoạt động chậm chạp. Ước tính rằng số cuộc gọi sẽ giảm xuống 3-4 lần.

Vì vậy, trong khi các hãng điện thoại di động nỗ lực để biến thông lượng mang  tính  lý thuyết cao vào thực tế cho đa số người dùng của họ , thì cả công nghệ truyền dẫn LTE  (Long Term Evolution), cũng như kẻ kế thừa của nó IMT-Advanced cũng không hoàn toàn giảm bớt vấn đề của việc có quá nhiều người sử dụng thiết bị di động với các ứng dụng đói băng thông trong một không gian đông đúc. Hơn nữa , vấn đề gốc rễ của tình trạng khan hiếm băng thông bị  trầm trọng thêm khi người dùng thiết bị di động đang di chuyển, như trên một chuyến tàu.

Các giải pháp cho các nhà mạng di động sẽ làm giảm tải lưu lượng, ở nơi có thể, bằng các hệ thống picocell Wifi cố định. Khả năng tương tác của các thiết bị di động với công nghệ vô tuyến khác nhau là một trong những mục tiêu của công nghệ IMTAdvanced. Và các nhà ga, với các mạng cố định dung lượng cao của họ, cung cấp một vị trí lý tưởng cho việc giảm tải lưu lượng truy cập di động vào cơ sở hạ tầng không dây. Khi truy cập vào những dịch vụ di động đói băng thông, hành khách có thể thấy các nhà ga đô thị là một trong số ít các đảo kết nối băng thông cao đáng tin cậy, ngoài môi trường gia đình và văn phòng của họ. Mọi người sẽ thích để truy cập vào các ứng dụng nhất định trong khi ở ga chứ không phải trên tàu, vì môi trường nhà ga cung cấp kết nối tốt hơn và tiềm năng hơn, một môi trường phù hợp hơn cho tương tác trực tuyến , học tập và tiếp thu thông tin.

Vai trò mới của nhà ga dựa trên nhu cầu xã hội

Khả năng truy cập mạng an toàn cho tới kết nối chất lượng cao và thuận tiện chỉ cung cấp một phần động lực cho hành khách để họ dành thời gian ở ga nhiều hơn. Vai trò mới cho các ga sẽ phát triển từ những thay đổi như việc mọi người khám phá ra làm thế nào để cân bằng tốt nhất chất lượng cuộc sống với nhu cầu đi lại để làm việc.  Công dụng mới của các nhà ga sẽ mở rộng việc thực hành biến nhà ga thành một nơi đáng để ở lại, chứ không phải để rời đi nhanh chóng.

Sự phục hưng của vận tải đường sắt bắt đầu từ 10 năm trước đây dẫn đến một số ga lớn nhất châu Âu đã trở thành những trung tâm mua sắm tuyệt đẹp với những trạm trung chuyển đi kèm.  Sự tiến hóa này dẫn đến một số trường hợp khá ngạc nhiên về cách sử dụng nhà ga.

  • Một trạm trung chuyển cho người già: Một cách sử dụng khả thi đó là dùng nhà ga như một điểm kết nối thuận tiện đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi. Nhà ga có thể phục vụ như là một nơi để gặp mặt trực tiếp các thành viên trong gia đình và một nơi để người già tiếp cận nhiều dịch vụ y tế khác nhau. Nhân khẩu ở châu Âu đang gia tăng nhu cầu dạng này ở các trạm trung chuyển.
  • Tái chế: Nhà ga đô thị cũng có thể trở thành một nơi để tái chế hoặc tái sử dụng nhựa và các vật liệu khác. Các điểm thu gom rác thải có thể được đặt ngay tại ga một cách thuận tiện. Chất thải có thể được chuyển đi bằng tàu hỏa đến các cơ sở  tái chế khác. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng của nhà ga có thể hỗ trợ mong muốn của xã hội để giảm mạnh chất thải và giảm bớt sự ra đời của nguyên liệu không tái chế được vào cuộc sống. Như ở Đan Mạch và Đức , hơn 85% chất thải nhựa được thu hồi và tái chế, có tỉ lệ cao như vậy là nhờ việc ngăn chạn và hạn chế quy mô các bãi rác thải. Việc xác định vị trí các cơ sở thu gom rác thải trong nhà ga cho phép giảm lượng khí carbon từ các sản phẩm.
  • Sản xuất quy mô nhỏ: các nhà ga có thể cung cấp khả năng tiếp cận tới một hệ thống vận tải đường sắt tiết kiệm năng lượng, việc sử dụng các nhà ga trong chu kỳ sản xuất quy mô nhỏ là một việc hợp lý. Chẳng hạn: ở nhà ga, nhựa tái chế có thể được cung cấp cho các cơ sở cho sản xuất để in 3D. Ngoài nhựa, các cửa hàng in ấn có thể sử dụng bột kim loại trong một quá trình kết tủa kim loại trực tiếp để tạo tác sản phẩm. Hành khách đi tàu có thể đặt hàng một sản phẩm, mà sau đó được sản xuất tại chỗ, trong ngày. Sản phẩm sẽ được giao trên đường về nhà , hoặc vận chuyển về nhà trên tàu nếu quá khổ để mang theo . Sự gần gũi về vị trí của nguồn vật liệu , các cơ sở sản xuất , cơ sở hạ tầng giao thông, và người tiêu dùng đi lại hàng ngày có khả năng làm cho các nhà ga đô thị trở thành một vị trí tuyệt vời cho các cơ sở sản xuất vi mô của tương lai.
  • Trung tâm cho các hoạt động cộng đồng: Một vai trò khác của nhà ga có thể xây dựng dựa trên những mong muốn của con người nhằm giúp đỡ những người khác và rèn luyện thể chất. Những mô hình kinh doanh vận hành tốt trong thế giới ảo có thể đem lại lợi ích nhiều hơn khi kết hợp với giao tiếp trực tiếp trong cộng đồng địa phương, ở một vị trí thuận tiện. Các hoạt động từ thiện có thể thấy nhà ga như một nơi lí tưởng để tiến hành và mở rộng nhận thức cộng đồng. Hay các hoạt động thể thao, tại sao không kết hợp các sân chơi thể thao tại ga đường sắt đô thị? Hành khách có thể tham gia vào một ván 30 phút của bóng chuyền, bóng rổ, hay bóng đá trên đường về nhà từ nơi làm việc. Việc mở rộng văn hóa, tiếp cận cộng đồng của thành phố, và các dịch vụ thể thao ở những địa điểm dễ quan sát và tiếp cận như vậy có thể tăng cường khả năng của khu vực để thu hút và giữ lại một lực lượng lao động sản xuất hiệu quả.

Làm thế nào để những nhà điều hành đường sắt có thể  chuẩn bị cho tương lai

Việc chuyển đổi cơ sở hạ tầng nhà ga sẽ trở nên thiết yếu trong việc giúp đỡ cung cấp chất lượng cuộc sống cao hơn cũng như đem đến một nền kinh tế tự cung tự cấp tại các thành phố trong tương lai. Do vận tải đường sắt hàng ngày sẽ tiêu thụ ngày càng nhiều năng lượng, nên các nhà quy hoạch giao thông nên ưu tiên tính toán để nâng cao sự hấp dẫn của đường sắt cũng như đóng góp của nó vào tổng mức GDP của quốc gia.

Các yếu tố như chất lượng không khí xung quanh và khí hậu cũng rất quan trọng trong việc xếp hạng . Nhà điều hành cũng phải giả định rằng tất cả mọi thứ và tất cả mọi người trong nhà ga cần phải được kết nối vào mạng lưới.

Lý tưởng nhất, sẽ có một mạng IP dựa trên tiêu chuẩn duy nhất, được phân đoạn một cách an toàn khi cần thiết , và được thiết kế để hỗ trợ lượng thiết bị vượt quá số lượng người trong nhà ga theo vài cấp độ khác nhau. Cơ sở hạ tầng của ga như :thang cuốn, kiosk thông tin , và các hệ thống HVAC (điều hòa, thông gió…) – sẽ được kết nối vào mạng lưới tổng thể. Sau khi kết nối , các hệ thống này có thể được theo dõi một cách hiệu quả và chủ động, do đó có thể phát hiện các lỗi một cách nhanh chóng , và bảo trì theo lịch trình cho giờ cao điểm.

Cơ sở hạ tầng sóng Wi-Fi ở nhà ga cung cấp một cơ hội đặc thù cho các nhà điều hành. Khi hành khách đăng ký để truy cập vào Wi-Fi của nhà ga , họ có thể đồng ý để cho nhà điều hành ga thu thập dữ liệu về sở thích và thói quen mua sắm trong khi ở đó. Nhà  điều hành ga cũng có thể lựa chọn hình thức kinh doanh thông tin . Ví dụ, mạng đường sắt S –Bahn của Berlin vận chuyển 1,4 triệu hành khách một ngày. Đa số hành khách được mời chào sử dụng cơ sở hạ tầng Wi-Fi của  nhà ga để đổi lấy sự cho phép thu thập số liệu thống kê ẩn danh dựa trên thói quen mua sắm và đi lại của họ, việc này có thể hình thành nên cơ sở cho một mô hình kinh doanh môi giới dữ liệu.

Và , tất nhiên, việc mở rộng hoạt động vào các doanh nghiệp thông tin có thể đem lại lợi ích . Hãng sản xuất dụng cụ thể thao và may mặc Nike đã có thể thu hút hơn 5 triệu người tham gia cộng đồng Nike +, tạo điều kiện cho các công ty tham gia vào việc kinh doanh thông tin. Khi một mô hình kinh doanh như vậy được đặt vào trọng tâm của nhà ga , một cơ hội đáng kể sẽ được tạo ra để giảm bớt các khoản trợ cấp công của cơ sở hạ tầng giao thông.

Kết luận

Sự phục hưng của nhà ga đường sắt sẽ tiếp tục. Nhà ga sẽ phát triển từ một trung tâm mua sắm và giao thông vận tải để trở thành trung tâm của sự tương tác giữa con người. Mạng truyền thông IP có dây và không dây có thể đáp ứng một trong nhu cầu cấp thiết nhất của xã hội đô thị: kết nối đáng tin cậy và an toàn thông qua một thiết bị di động trong thời gian đi làm hàng ngày. Khi các nhà ga trong đô thị được chuyển đổi để phục vụ cho nhu cầu này và một loạt các nhu cầu khác, việc đi lại sẽ không còn được xem như là một điều thiết yếu buồn chán, mà là một cơ hội để làm phong phú thêm cuộc sống của chúng ta.

S'up